Trang chủ Giữa Đông và Tây - Giải pháp nào cho Việt Nam hình chữ S giữa gọng kìm Đông và Tây

Giữa Đông và Tây - Giải pháp nào cho Việt Nam hình chữ S giữa gọng kìm Đông và Tây

Mới
Giá giảm $20.00
Thêm vào Danh sách yêu thích Thêm vào So sánh
Có sẵn
Order in the next to get it between and

Guarantee Safe Checkout

Visa
PayPal
Mastercard
American Express
Discover
Apple Pay
Giữa Đông và Tây - Giải pháp nào cho Việt Nam hình chữ S giữa gọng kìm Đông và Tây

Giữa Đông và Tây - Giải pháp nào cho Việt Nam hình chữ S giữa gọng kìm Đông và Tây

$20.00

LỜI GIỚI THIỆU

Cuốn sách Giữa Đông và Tây của giáo sư Nguyễn Thanh Giang là một hợp tuyến các tiểu luận và các bài viết của ông về các chính sách ngoại giao và an ninh quốc gia của Việt Nam, cũng như về vai trò của Việt Nam trên thế giới. Điểm nổi bật của công trình đặc biệt này là ở chỗ nó được viết bởi một cá nhân, không phải là cán bộ hay đảng viên đảng cộng sản làm công tác đôi ngoại. Nếu Việt Nam là một nước dân chủ tự do hiện đại thì điều này không phải là điều đáng ngạc nhiên. Ví dụ, nếu độc giả dạo qua bất kỳ một hiệu sách nào ở Paris, Luân đôn, Washington, Ottawa, Canberra hay Tokyo thì họ có thể thấy rất nhiều những cuốn sách như cuốn sách này. Tiến sĩ Noam Chomsky chăng hạn, ông là một giáo sư ngôn ngữ học nhưng đã tiến hành những nghiên cứu của cá nhân ông và công bố những bình luận có ảnh hưởng tới sự can thiệp của Hoa Kỳ vào những xung đột trong Thế giới Thứ ba như cuộc chiến ở Việt Nam và Afganistan. Các ấn phẩm của ông đã làm cho những tranh cãi quyết liệt ở Hoa Kỳ về việc xác định lợi ích thực sự của quốc gia trong các hoạt động quốc tế trở nên sắc nét hơn.

Người ta thường biện hộ rằng việc bàn luận về các chính sách an ninh quốc gia và quốc tế thường thuộc về tầng lớp trên.

Điều này đặc biệt đúng với Việt Nam, nhà nước độc đảng kiếm soát mọi thông tin và đã xếp hầu hết mọi vấn đề về an ninh quốc gia và đối ngoại thuộc bí mật nhà nước. Tin tức được biên tập một cách kỹ lưỡng cho phù hợp với chính sách đối ngoại của Việt nam thông qua bản tin của Thông tấn xã Việt Nam và sau đó được báo chí xào xáo lại trong các tờ báo do nhà nước kiểm soát. Những tin tức như vậy chẳng khác gì các thông cáo báo chỉ tự tuyên truyền cho chính bản thân nhà nước. Ngay cả những cuộc phỏng vấn các bộ trưởng cũng được sắp đặt rất kỹ lưỡng.

Báo chí nhất nhất phải phù trợ đường lối đảng. Mọi cuộc thăm viếng của một vị lãnh đạo nước ngoài đều ghi dầu một " giai đoạn mới" trong công cuộc phát triên quan hệ song phương với Việt Nam. Mọi sự phát triển trong chính sách đối ngoại đều được tô điểm đẹp đẽ và các vấn đề khúc mắc được dấu kín.

Không có những nhà nghiên cứu độc lập trong giới " quan trên " về chính sách an ninh quốc gia và đối ngoại. Việt Nam đã gửi nhiều sinh viên giỏi ra nước ngoài để có được các bằng cấp cao trong lĩnh vực quan hệ quốc tế. Khi về nước, họ trở thành các cán bộ nhà nước, nhưng họ không được công bố các quan điểm độc lập, đặc biệt nếu những quan điểm đó mâu thuẫn với chính phủ hoặc đụng đến "vấn đề nhạy cảm". Một số nhà ngoại giao hưu trí viết và tự tán phát các tập hồi ký vì nhà nước không xuất bản những tác phẩm ấy.

Tình hình xuất bản các tài liệu chính thức của Việt Nam cũng không khá hơn. Các chế độ dân chủ tiên tiến thường chỉ quy định một khoảng thời gian giới hạn cho việc giữ bí mật các tài liệu quốc gia. Thường chỉ khoảng ba mươi năm. Hàng năm, những nước như Úc, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đều công bố các tài liệu chính thức của nhà nước. Chỉ những tài liệu nhạy cảm nhất trong số đó là được giữ bí mật và chỉ một số người được sử dụng. Những tài liệu được phép tiết lộ được các nhà nghiên cứu có uy tín soạn thảo tạo nên nguồn thông tin phong phú để các nhà nghiên cứu độc lập đánh giá lại các tiến trình lịch sư.

Ở Việt Nam, các ban của đảng soạn thảo rất kỹ lưỡng và công bố rất chọn lựa các tài liệu lịch sử. Ngày nay, khi mà Chiến tranh lạnh đã kết thúc, một khối lượng lớn các tài liệu quốc gia được giải tỏa đã cho phép các học giả phán xét lại các quyết định quan trọng và các bước ngoặt lịch sử. Những điều đó soi rọi không chỉ vào những thành quả của đất nước mà còn giải thích lý do của những sai lầm và nhận thức lệch lạc.

Một trong những cố gắng đầu tiên để tìm hiểu quá khứ là đề án của trung tâm Woodrow Wilson về Chiến tranh Lạnh trong lịch sử. Những ấn phẩm của đề án này đã điều chỉnh lại nhận thức của chúng ta về mối quan hệ giữa Stalin và Mao Trạch Đông. Nhưng nhận thức của chúng ta về vai trò của Việt Nam trong những biến cố quan trọng này lại rất thiếu sót do Việt Nam khước từ việc công bố những tài liệu này cho công chúng. Ví dụ, chúng tôi có được những bản báo cáo về sách lược của Việt Nam đối với "nhà cải cách" Nikita Khrushchev vào năm 1963 qua kênh các đại sứ tại Hà Nội nhưng không có được những bản báo cáo chính thức từ đảng hay nhà nước Việt Nam.

Việc Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành "nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa" vào năm 2020 buộc đất nước này phải đương đầu với vấn đề làm thế nào để minh bạch hơn, cởi mở hơn đối với các chính sách về an ninh quốc gia và đối ngoại.

Điều này có nghĩa là các quyết định quan trọng phải được thông tin cho công chúng bằng cách cung cấp những thông tin không bị kiểm duyệt. Điều này cũng có nghĩa là phải cho phép mở cửa thị trường tự do tư tưởng cùng với thị trường tự do về hàng hóa.

Nghĩa là, không chỉ cho những quan chức nhà nước đã nghỉ hưu công bố các quan điểm của họ mà còn cho phép cả những dân thường nghiên cứu các hồ sơ công cộng và công bố các quan điêm của họ.

Tương lai Việt Nam sẽ được định đoạt chủ yếu bởi ba mối ràng buộc: toàn cầu hóa, sự vươn lên của Trung Quốc và sự khu vực hóa. Các nền kinh tế thế giới sẽ ngày càng đan xen nhau.

Muốn thành công, các quốc gia phải hội nhập toàn cầu. Hoa Kỳ sẽ vẫn là quốc gia mạnh nhất về mọi phương diện trong nhiều thập kỷ tới. Nhưng sức mạnh tương đối của Hoa Kỳ sẽ giảm sút khi sức mạnh quân sự và kinh tế của Trung Quốc tăng lên. Phải chăng Trung Quốc sẽ vươn lên một cách hòa bình? Phải chăng Trung Quốc sẽ nhằm tới vai trò bá chủ Đông Nam Á? Khuynh hướng khu vực hóa được thể hiện thông qua sự thiết lập các thể chế; hiện nay đã thấy rõ xu hướng vượt ra ngoài khuôn khố khu vực hóa Đông Nam Á để vươn tới cả khu vực hóa Đông Á.

Đông Á trong tương lai sẽ được hình thành trên quan niệm "khu vực hóa mẫu mực" nhấn mạnh đến sự quản lí tốt, tôn trọng các quyền con người và các thể chế dân chủ.

Việt Nam phải đương đầu với nhiều vấn đề chiến lược.

Những nhà lãnh đạo Việt Nam sẽ phải giải trình và bảo vệ những lựa chọn về chính sách trước công chúng Việt Nam. Để làm được như vậy, họ phải cung cấp những thông tin cho cuộc tranh luận rộng rãi. Tuy nhiên, vậy vẫn chưa đủ. Những nhà lãnh đạo Việt Nam không chỉ nên cho phép mà còn phải khuyến khích những quan điểm khác biệt. Nhân dân Việt Nam phải có quyền thảo luận về mô hình phát triển kinh tế và chính trị của Trung Quốc là phù hợp với Việt Nam hay mối quan hệ Việt Nam Trung Quốc đang cản trở sự phát triển mối quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ. Nhân dân Việt Nam cần phải được biết vì sao cứ duy trì mãi thái độ kỳ thị lỗi thời đối với Hoa Kỳ, từ đầy cản trở việc triển khai sự hợp tác quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

 

Cuốn sách Giữa Đông và Tây của Nguyễn Thanh Giang được hoan nghênh vì nó trình bầy những vấn để an ninh quôc gia và đối ngoại đặt ra đối với Việt Nam. Giáo sư Giang công bố nhiếu dữ liệu chưa được biết tới rộng rãi và đưa ra những quan điểm làm nhiều người thấy như là khó tiếp thu. Điều quan trọng là dựa trên những cân nhắc, nhìn nhận của chính bản thân mình, độc giả sẽ bị thách thức bởi các dữ kiện và bị lôi cuốn vào những tranh luận của giáo sư Giang. Tôi cho rằng cuốn sách có khả năng khơi dậy cuộc tranh luận quốc gia về vai trò Việt Nam trên trường quốc tế và mối quan hệ quốc phòng và kinh tế của nước này đối với siêu cường Hoa Kỳ và với Trung Quốc đang trỗi dậy.

Canberra, tháng 3 năm 2007

Giáo sư Carlyle A. Thayer

Bộ môn Khoa học Xã hội và Nhân văn

Trường Đại học Tổng hợp New South Wales, Thuộc Viện Quốc phòng Úc

Canberra, ACT 2600 Australia

Tác giả: Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang

Bìa: Bìa mềm

Năm phát hành: 2009