
Truyện Kiều Nghệ Thuật Và Lan Toả ( Bià Cứng)
Guarantee Safe Checkout

Truyện Kiều Nghệ Thuật Và Lan Toả ( Bià Cứng)
“Truyện Kiều còn, nước ta còn”, học giả Phạm Quỳnh 80 năm trước đã khẳng định, thời kỳ đất nước đang trong vòng đô hộ Pháp.
Trải qua những giai đoạn hòa bình, chiến tranh, chế độ cộng sản thống trị miền Bắc từ 1954, miền Nam xây dựng tự do Dân chủ… Rồi, cuộc chiến ý thức hệ châm ngòi vào năm 1960, nhiễu nhương, ly loạn, truyện Kiều vẫn được xiển dương mạnh mẽ trên toàn miền Nam…Tập I mang tựa đề “Tác Giả, Nhân Vật và Tâm Lý”, nay tập II vừa phổ biến “Truyện Kiều, Nghệ thuật và Lan Tỏa”; hoặc rõ hơn, rộng hơn qua lời giới thiệu của tổ hợp xuất bản Miền Đông – GS Nguyễn Ngọc Bích thì “Truyện Kiều nhìn từ nhiều góc độ”.Tuy thế phần nghệ thuật trong toàn tác phẩm có lẽ là phần chủ yếu. Hình tượng bóng Nga và hoa trong truyện Kiều đã trở thành mối tương quan hoàn cảnh, nhân vật và tâm trạng, không gian, thời gian dưới ngòi bút sắc nét và tầm nhìn sâu rộng của GS Đặng Cao Ruyên.
Tác giả đã tìm thấy 58 từ về trăng và bình giải chi tiết, xin được nhắc lại đây một số biểu tượng:
Trăng khi tròn khi khuyết, khi tỏ khi mờ, màu trăng đậm nhạt theo thời tiết đã đành, còn hòa quyện vào tâm lý các nhân vật trong truyện… Trăng hiện diện trong Truyện Kiều hàm chứa phân minh họa rõ nét: Ví như tả Thúy Vân mặt mày tròn trịa, phúc hậu “Khuôn trăng đầy đặn”. Trăng dọi xuống mộ Đạm Tiên hoang vắng “Trải bao thỏ lặn ác tà”
Cuộc du xuân phơi phới, rộn ràng của chàng Kim “Đề huề một túi gió trăng”. Tình yêu chớm nở với Thúy Kiều khi cô đơn nhìn thấy trăng “Một mình lặng ngắm bóng nga/ Rộn đường gần với nỗi xa bời bời”; Hoặc “Hiên tà bóng gác nghiêng nghiêng/ Nỗi riêng, riêng chạnh tấc riêng một mình”.
Trăng của chàng Kim, kẻ lụy tình từ sau buổi du xuân gặp gỡ Thúy Kiều “Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao/ Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng”. Trăng, tín hiệu thời khắc chuyển di “Tuần trăng thầm thoát nay đà thêm hai”. Hoặc thời gian đang tới: “Lần lần ngày gió đêm trăng/ Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua”. Trăng cũng đóng vai nhân chứng cho nguyện ước của hai người: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai miệng một lời song song…”
Trăng, chứng nhân thiêng liêng, tin cậy, càng gần gũi hơn với con người trong từng hoạn nạn, bất an… “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân/ Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”. Trăng hạ huyền: “Chim hôm thoi thóp về rừng/ Đóa Trà mi đã ngậm trăng nửa vành”. Trăng thu về sáng: “Đêm thu khắc lậu canh tàn/ Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương”. Trăng hè “Dưới trăng quyên đã gọi hè/ Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”. Trăng của người đi, kẻ ở “Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”. Trăng của tàn phai “Đầy vườn cỏ mọc lau thưa/ Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời”. Trăng của sum họp “Một nhà chung chạ sớm trưa/ Gió trăng mát mặt/ Sớm trưa chay lòng”.Trong phạm vi một bài giới thiệu, ắt hẳn không thể dàn trải ý tưởng phong phú, phân tích chi li, cặn kẽ của GS Đặng Cao Ruyên. Hơn thế, thiết nghĩ bạn đọc yêu thích truyện Kiều càng phải tiếp cận, càng tiếp cận, càng cảm nhận thiên tài Nguyễn Du, đã sản sinh tác phẩm có một không hai trong dòng văn học sử nước nhà.
Tác giả: Đặng Cao Ruyên
Năm phát hành: 2010